Luật sư có được thu thập chứng cứ trong vụ án

Luật sư có được thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự, dân sự, hành chính không?

  1. Thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự

Trước đây, theo quy định tại điều 65 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS)thì chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ là những cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.

Luật sư tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa cho người bị buộc tội không được thừa nhận một cách trực tiếp là chủ thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ, mà chỉ được quy định một cách gián tiếp là việc “có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án”.

Hiện nay, khoản 2 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Có nghĩa là, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã trực tiếp thừa nhận “Luật sư là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ” trong quá trình thực hiện hoạt động gỡ tội cho thân chủ của mình.

Trong tố tụng hình sự, việc thu thập chứng cứ của luật sư được chủ động thực hiện thông qua các hoạt động sau:

– Gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, để nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án: Là những người trực tiếp nắm giữ những thông tin quan trọng, lời trình bày của người bị buộc tội, bị can, bị cáo là chứng cứ quan trọng được sử dụng trong vụ án hình sự. Những lời trình bày, khai nhận tự nguyện trung thực, khách quan góp phần quan trọng làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Bên cạnh các chứng cứ là biên bản ghi lời khai được tiến hành do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, thì Luật sư được quyền gặp người mà mình bào chữa để nghe họ trình bày, xác minh tính xác thực trong các biên bản ghi lời khai do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.

– Đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, liên quan đến việc bào chữa

Sự có mặt của luật sư khi người tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ sẽ góp phần bảo đảm tính khách quan, đúng trình tự, thủ tục của người tiến hành tố tụng hoặc trấn an tinh thần của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Các hoạt động này được thể hiện ở việc:

+ Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;

+ Có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS;

+ Xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;

+ Đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

+ Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

+ Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

+ Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra;

+ Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa;

(Nguyễn Xuân Bình “Thu thập chứng cứ của Luật sư và Tòa án – Quy định và vướng mắc” Tapchitoaan.vn)

  1. Thu thập chứng cứ trong vụ án dân sự, hành chính

Khác với nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự (Nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền) thì trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, bởi họ là những người đưa ra yêu cầu, người phản tố.Yêu cầu của đương sự có thể xác định cụ thể, đó là: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập của bị đơn; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi các đương sự có yêu cầu thì đều phải chứng minh yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đây là nguyên lý đặc trưng trong pháp luật tố tụng dân sự của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong trường hợp Luật quy định (Điều 6 BLTTDS 2015và Điều 9 Luật tố tụng hành chính 2015)

Khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015 quy định: Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp:

– Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;

– Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.

Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;

– Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.

Khoản 1 Điều 9 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: Các đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh như đương sự.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS năm 2015 thì đương sự phải giao nộp tài liệu, chứng cứ trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Trường hợp giao nộp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự mà đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu chứng cứ mà Tòa đã yêu cầu nộp nhưng không nộp vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do việc chậm giao nộp. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa không yêu cầu nộp mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc thì mới có quyền giao nộp tại phiên tòa, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo.

Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện của đương sự thì có tất cả quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền, như vậy Luật sư có thể thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nếu Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì Luật sư cần chỉ rõ cho đương sự thấy được những chứng cứ tài liệu liên quan đến vụ án, trong trường hợp cần thiết Luật sư có thể thu thập tài liệu, chứng cứ cho đương sự và hướng dẫn đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án

 

 

 

 

Sản Phẩm Liên Quan