Tái thẩm trong tố tụng hình sự
Tái thẩm không được coi là một cấp xét xử mà là một thủ tục đặc biệt theo đó bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xem xét lại trên cơ sở có kháng nghị của người có thẩm quyền khi phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định của Tòa án trước đó. Những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định của Tòa án bao gồm:
– Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịchcó những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật;
– Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai;
– Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
– Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.
Với quy định trên tại Điều 291 BLTTHS 2003 khi phát hiện một hay nhiều các tình tiết nêu trên, những người có thẩm quyền sẽ ra kháng nghị và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ được xem xét lại theo thủ tục tái thẩm. Để xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự tái thẩm được đúng đắn, cần thiết phải điều tra, xác minh và thẩm định các tình tiết mới được phát hiện nên pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp mới có thẩm quyền kháng nghị theo trình tự tái thẩm. Điều 293 BLTTHS 2003quyđịnh:
“Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm:
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đốivới những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyếtđịnh của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
– Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sựcấp dưới.
– Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sựkhu vực.”
Điều 292 BLTTHSquy định về việc thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện:
“1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó.
- Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.”
Để bản án hoặc quyết định được công bằng, khách quan, “đúng người đúng tội” thì đều cần phải có sự tham gia của mọi công dân, cơ quan, tổ chức khi nhận thấy có những tình tiết mới làm ảnh hưởng cơ bản đến những bản án, quyết định trước đó là hoàn toàn hợp lý. Nhưng việc để quyết định kháng nghị tái thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền như quy định tại khoản 2 Điều 292 như trên thì lại không được hợp lý. Bởi vì, Tòa án thực sự là khó có thể đủ nghiệp vụ để xác minh được liệu tình tiết mới này có chuẩn xác với vụ án hay chưa. Do đó, có hay chăng nên để quy định này theo hướng để Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh những tình tiết mới của vụ án.
Đối với thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm thì việc tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện. Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Về thẩm quyền tái thẩm được quy định: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực; Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu; Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Nhưng về thẩm quyền của hội đồng tái thẩm, không có điều luật nào quy định về căn cứ của việc ra quyết định. Điều 298 chỉ quy định những quyền hạn của hội đồng tái thẩm như sau:
- Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, việc hội đồng tái thẩm không chấp nhận kháng nghị đều dẫn đến việc giữ nguyên bản án có hiệu lực pháp luật, do đó có thể xảy ra trường hợp không thể giữ nguyên bản án. Ví dụ, trong khi tiến hành tái thẩm người bị kết án theo hướng không có lợi chết, nếu kháng nghị không có căn cứ, hội đồng tái thẩm sẽ không chấp nhận kháng nghị nhưng không giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà phải đình chỉ vụ án đối với người bị kết án đã chết. Vì vậy, cần phải có quy định loại trừ trường hợp hội đồng tái thẩm có thể hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án. Do đó, đề xuất xây dựng quy định về căn cứ không chấp nhận kháng nghị theo hướng: “Hội đồng tái thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nếu xác định tình tiết mới không làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 298b và Điều 298c của Bộ luật này”.
- Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại;
BLTTHS cũng không quy định cụ thể căn cứ, không quy định có thể xét xử lại sơ thẩm, phúc thẩm hay tái thẩm lại. Việc hủy bản án, quyết định của tòa án không có nghĩa là trong mọi trường hợp toàn bộ nội dung trong bản án, quyết định bị kháng nghị đều bị hủy bỏ.Việc hủy toàn bộ hay một phần bản án phụ thuộc chủ yếu vào tình tiết mới là căn cứ kháng nghị tái thẩm có ý nghĩa như thế nào đối với phán quyết tòa án đã tuyên.
Trong trường hợp tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị tái thẩm có ảnh hưởng đến toàn bộ nội dung bản án, quyết định cần điều tra lại từ đầu, hội đồng tái thẩm phải quyết định điều tra lại từ đầu. Trên thực tế, có thể có trường hợp không thể sử dụng một số kết quả điều tra trước đó; do người bị kết án sử dụng họ tên, lý lịch của người khác để nhận tội, vụ án có một người phạm tội; hoặc kết quả hoạt động điều tra trước đó không đúng người do người bị kết án nhận tội thay cho người khác. Có thể có trường hợp nghiêm trọng hơn, đó là quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã kết án người không thực hiện tội phạm, mặc dù trong cả quá tình tố tụng người bị kết tội oan luôn phản ánh bị làm oan sai.
Trường hợp hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định để xét xử lại, nếu vụ án đã được xét xử hai cấp, hội đồng tái thẩm tuyên hủy cả bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại nếu tình tiết mới liên quan đến việc xác định sai sự kiện thực tế trong quá trình xét xử từ giai đoạn sơ thẩm và không được phát hiện ở cấp phúc thẩm. Hội đồng tái thẩm cũng có thể tuyên hủy bản án, quyết định phúc thẩm để phúc thẩm lại trong trường hợp tình tiết mới làm thay đổi nội dung bản án, quyết định phúc thẩm. Hiện nay trong BLTTHS quy định có nhiều cấp tòa án có thẩm quyền tái thẩm nên thực tế có trường hợp hội đồng tái thẩm tuyên hủy quyết định tái thẩm để tái thẩm lại.
Như vậy, hội đồng tái thẩm quyết định hủy một phần hay toàn bộ bản án, quyết định và quyết định xét xử lại từ cấp nào tùy thuộc vào tình tiết mới được phát hiện, xuất hiện ở thời điểm nào của quá trình tố tụng và có ảnh hưởng như thế nào đến bản án, quyết định đang xem xét. Để có căn cứ pháp lý thực hiện đúng đắn thẩm quyền của hội đồng tái thẩm thì đề xuất như sau:
“ Điều 298b. Hủy bản án, quyết định bị kháng nghị để điều tra, xét xử lại
Hội đồng tái thẩm hủy bản án, quyết định kháng nghị để điều tra lại nếu tình tiết mới là căn cứ để kháng nghị làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định xét thấy cẩn phải điều tra lại từ đầu để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nếu cần xét xử lại, tùy trường hợp hội đồng tái thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm, phúc thẩm hoặc tái thẩm”.
- Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.”
BLTTHS không quy định căn cứ để hội đồng tái thẩm tuyên hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án. Trong quy định tại phần thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và xét lại theo thủ tục giảm đốc thẩm đều có quy định căn cứ để tòa án có thẩm quyền tuyên bố đình chỉ vụ án. Từ quy định về các căn cứ đình chỉ vụ án được quy định khi vụ án giải quyết trong các giai đoạn tố tụng trước đó cũng như thực tiễn áp dụng có thể nhận thấy các căn cứ không khởi tố vụ án quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 cũng là các căn cứ để hội đồng tái thẩm tuyên bố hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án. Việc thừa nhận đây là các căn cứ để hội đồng tái thẩm đình chỉ vụ án đều được các nhà nghiên cứu thừa nhận.
Ngoài ra, trường hợp hội đồng tái thẩm hủy quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng không thể quyết định điều tra, xét xử lại hay đình chỉ vụ án như quy định của pháp luật. Đó là trường hợp hội đồng tái thẩm hủy quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của tòa án, vì có tình tiết mới dẫn đến phán quyết cho giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù của tòa án không có căn cứ mà khi xét giảm tòa án không biết. Trường hợp này, hội đồng tái thẩm hủy quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt là đúng nhưng không thể đình chỉ vụ án hay điều tra, xét xử lại, bởi vì thực chất vụ án đã giải quyết xong. Hơn nữa, đây cũng là không phải một trong những quyết định mà hội đồng tái thẩm có thẩm quyền ban hành theo quy định tại Điều 298 BLTTHS. Trên thực tế, trong trường hợp phải tái thẩm quyết định loại này không phải là cá biệt, vì vậy cần bổ sung quy định của pháp luật về các trường hợp này để đảm bảo không vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, do quyết định của tòa án không liên quan đến việc giải quyết thực chất vụ án hình sự nên có thể xây dựng quy định riêng về kháng nghị tái thẩm các quyết định của tòa án hoặc bổ sung thẩm quyền cho hội đồng tái thẩm tại khoản 4 Điều 298 như sau: “Hủy quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án”.