Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù:

– Bị bệnh nặng;

– Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì được hoãn đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

– Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 1 năm ( trừ người đó bị kết án tội xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng)

– Bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ thì được hoãn đến 1 năm

Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trường hợp bị bệnh nặng

Theo quy định tại thông tư liên tịch 02/2006/TTLT-BCA-BQP-BYT-TANDTC-VKSNDTC. Khi bị bệnh nặng, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Chánh án Tòa án quân sự quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là Chánh án Tòa án cấp tỉnh) nơi người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng có thẩm quyền quyết định cho người đó được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Điều kiện để có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù:

– Người đang chấp hành hình phạt tù có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong trường hợp bị bệnh nặng.

Người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng là người bị bệnh đến mức không thể tiếp tục chấp hành hình phạt tù được và nếu để tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó, cần thiết phải cho họ được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ như: ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu…

– Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng và nếu để họ tiếp tục chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ.

– Người đang chấp hành hình phạt tù phải có nơi cư trú tại xã, phường, thị trấn.

Về hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

3.1. Viện kiểm sát hoặc của Ban giám thị trại giam nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù gửi đề nghị lên cơ quan có thẩm quyền.

3.2. Hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng bao gồm:

  1. a) Bản sao bản án hoặc bản sao trích lục bản án hình sự;
  2. b) Kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về tình trạng bệnh tật. Đối với người bị nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS thì chỉ cần kết quả xét nghiệm bị nhiễm HIV theo quy định của Bộ Y tế và trong hồ sơ bệnh án phải xác định rõ là đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu;
  3. c) Văn bản đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho người bị bệnh nặng của Ban giám thị trại giam, Ban giám thị trại tạm giam.

Đối với người đang chấp hành hình phạt tù tại nhà tạm giữ thì Trưởng nhà tạm giữa phải báo cáo cho Ban giám thị trại tạm giam có thẩm quyền để làm văn bản đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cho họ;d) Ý kiến thẩm định của cơ quan có thẩm quyền được hướng dẫn tại mục 4 Thông tư này (trừ người đang chấp hành hình phạt tù bị nhiễm HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội và có tiên lượng xấu);

đ) Ý kiến của lãnh đạo Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng nhưng bị phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia; bị phạt trên 15 năm tù, tù chung thân về các tội giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, cố ý gây thương tích, cố ý truyền HIV cho người khác hoặc bị phạt tù từ 20 năm trở lên (kể cả tổng hợp hình phạt), tù chung thân về các tội phạm khác do cố ý.

Lưu ý: Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo.

Người đọc không sử dụng nội dung bài viết vào hoàn cảnh thực tế, chỉ áp dụng các quy định hiện hành liên quan trực tiếp đến tình huống.

Sản Phẩm Liên Quan