Chứng cứ và các quy định của pháp luật phần I

 

Quy định về chứng cứ  I- Thẩm quyền thu thập chứng cứ:

Theo quy định của BLTTHS năm 2003, thì những người sau đây có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát (VKS) các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp. Cũng theo BLTTHS năm 2003, thì đây là những người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng các biện pháp như: Ra lệnh khám xét, phê chuẩn lệnh khám xét, ra quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi, triệu tập người tham gia tố tụng để hỏi cung, lấy lời khai, đối chất,…

Người trực tiếp thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ là Điều tra viên, Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa, cán bộ giám định, người được mời tham gia khám nghiệm. Ngoài những người trên, những người trong các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra như những người trong cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy,…cũng được quyền thực hiện một số biện pháp thu thập chứng cứ tùy theo trường hợp. Người tiếp nhận các đối tượng bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang truy nã. Điều 82 BLTTHS quy định người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã được giải đến Cơ quan Công an, VKS hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất, các cơ quan này phải lập biên bản. Biên bản do những cơ quan này lập mà có ghi nhận những thông tin ban đầu về tội phạm, thì chúng sẽ trở thành chứng cứ. Như vậy xét về góc độ chứng minh tội phạm, thì những người được luật pháp giao trách nhiệm lập biên bản bắt nêu trên là các chủ thể có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ.

…….

Sản Phẩm Liên Quan